Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

TRƯỜNG SA 1988: VÌ SAO LIÊN XÔ THỜI GORBACHEV IM LẶNG KHI VN BỊ CƯỚP MẤT ĐẢO?

Khi Trung Quốc đánh chiếm Gạc Ma- Trường Sa năm 1988, chính quyền Gorbachev đã dội vào Việt Nam một gáo nước lạnh. Họ đã đánh mất đi tất cả những gì mà các thế hệ lãnh đạo Liên Xô tiền nhiệm đã từng tạo dựng được ở Việt Nam.

Dù đã kí với nhau Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện năm 1978, nhưng 10 năm sau, khi quần đảo Trường Sa của Việt Nam bị Trung Quốc tấn công, tại sao Liên Xô không có động tĩnh?

Không chỉ ở Việt Nam, mà ở nhiều nước khác, đặc biệt là ở Nga, cho đến gần đây người ta vẫn đặt câu hỏi tại sao Liên Xô lại có thái độ im lặng trước việc Trung Quốc tấn công xâm chiếm các đảo của Việt Nam tháng 3/1988, dù Việt-Xô đã ký kết Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện năm 1978.

Người ta còn nhắc đến điều 6 của Bản Hiệp ước, nêu rõ "trong trường hợp một trong hai bên bị tấn công hoặc bị đe doạ tấn công, thì hai bên ký hiệp ước sẽ lập tức trao đổi ý kiến với nhau, nhằm loại trừ mối đe doạ đó và áp dụng các biện pháp thích đáng có hiệu lực, để bảo đảm hoà bình và an ninh của hai nước".

Tháng 2/1979, khi Việt Nam bị Trung Quốc tấn công biên giới, trên tinh thần Hiệp ước, Liên Xô đã khẩn trương cử đoàn cố vấn quân sự cấp cao sang Việt Nam và có những động thái hết sức khẩn trương, kịp thời, hiệu quả để giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam.

Vậy nhưng 9 năm sau, khi Việt Nam bị Trung Quốc tấn công cướp đảo, Liên Xô lại hầu như không có động tĩnh gì. Đâu là lý do đích thực?

Sự lý giải của các chuyên gia quân sự, các nhà khoa học lịch sử uy tín của Nga sẽ cho chúng ta biết rõ hơn về điều này.

Ý kiến của các chuyên gia được đưa ra tại cuộc Bàn tròn trực tuyến do báo Gazeta.ru tổ chức ngày 14/3/2014, đúng dịp kỷ niệm 26 năm Trung Quốc tấn công xâm chiếm các đảo của Việt Nam ở quần đảo Trường Sa.

Thay đổi đường lối ngoại giao

Trong bản tham luận tại Hội thảo “Vai trò của Liên Xô trong các cuộc xung đột tại Việt Nam cuối thập niên 70, 80 thế kỷ XX” tổ chức ngày 11/3/2014 (đã đăng trên tạp chí "Những trang lịch sử"), GS.TS.Vladimir Kolotov, nhà Việt Nam học từ Trường Đại học tổng hợp quốc gia Saint Petersburg đã dẫn ý kiến của GS.V.I.Dashichev, một nhà ngoại giao kỳ cựu của Liên Xô.

Trong một bài phân tích đề ngày 1/1/1987 gửi Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao A.Gromyko, trước đó là Bộ trưởng ngoại giao Liên Xô, V.I.Dashichev - khi đó là Chủ tịch Ủy ban cố vấn khoa học của Bộ ngoại giao Liên Xô - đã nhận định việc ủng hộ Việt Nam sẽ khiến Liên Xô "không chỉ khó khăn trong quan hệ với phương Tây, mà còn chồng chất trở ngại trong việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc".

Những phân tích gửi Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết Tối cao A.Gromyko này đã được thực hiện chỉ 1 năm trước khi xảy ra vụ Gạc Ma.

TS.V.Kolotov nhận định: Rõ ràng là, các vấn đề của Việt Nam không hề nằm trong các ưu tiên đường lối đối ngoại của lãnh đạo Liên Xô, cũng như Bộ Ngoại giao Liên Xô trong những năm đó (dưới thời kỳ lãnh đạo của M.Gorbachev).

Các chuyên gia nói gì?

TS.Vladimir Mazyrin, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN của Viện Viễn Đông (Viện hàn lâm khoa học Nga) đánh giá về sự kiện 14/3/1988:

“Năm 1988, tôi làm việc tại Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội. Và chúng tôi nhận thấy sự kiện này quá bất ngờ và khó hiểu.

Tôi nhớ năm 1988, hai Đảng cộng sản của Việt Nam và Trung Quốc đã bắt đầu quá trình đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ.

Khác với năm 1979, khi đó hai nước có những mối quan tâm khá tương đồng. Vậy mà Trung Quốc, với ưu thế quân sự vượt trội, lại cho phép mình có hành động chống Việt Nam như thế.

Cần phải thấy rõ là Liên Xô trong thời điểm đó, dưới sự lãnh đạo của Gorbachev, không muốn có những hành động chống lại Trung Quốc, cũng như Mỹ”.

TS.Mazyrin cho biết thêm:

“Gần đây, CIA công bố một báo cáo về sự kiện này. Báo cáo có nhắc đến chi tiết đại sứ Việt Nam tại Liên Xô khi đó đã đến gặp Igor Rogachev, Thứ trưởng Bộ ngoại giao Liên Xô và đề nghị Việt Nam và Liên Xô sẽ cùng phối hợp lên án Trung Quốc đã chiếm trái phép các đảo.

Rogachev đã nói ngay, sẽ không có tuyên bố chung nào như vậy”.

Còn TS.Dmitry Mosyakov, lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại dương của Viện Đông phương học (Viện hàn lâm khoa học Nga) thì phân tích rõ hơn:

“Nếu như năm 1979 (chiến tranh biên giới-PV), Liên Xô có vai trò lớn thì năm 1988, lại ngược lại.

Trước đây, chúng ta vẫn nói là đường lối đối ngoại của Liên Xô khá đơn giản, phân biệt khá rõ giữa “kẻ lạ”, “người tốt”, “kẻ xấu”.

Nhưng khi (Liên Xô) bắt đầu thay đổi đường lối, bắt đầu “đổi mới tư duy chính trị”, bắt đầu xem xét các yêu cầu của Trung Quốc để bình thường hóa quan hệ (như vấn đề Campuchia, Afghanistan), bắt đầu chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác, thì chính sách đối ngoại bắt đầu suy yếu.

Rõ ràng là tàu Trung Quốc gây hấn, các bạn Việt Nam yêu cầu chúng ta giúp đỡ (tôi nhớ là đã có Hiệp ước hữu nghị và hợp tác toàn diện), và các tàu Trung Quốc đã đánh chìm tàu Việt Nam. Tình hình ở ngoài đó là rất nghiêm trọng.

Các bạn Việt Nam đã mong chờ vào sự ủng hộ của lãnh đạo Liên Xô. Nhưng, lãnh đạo Liên Xô khi đó, rõ ràng là đã có những tính toán khác, họ có những suy nghĩ hoàn toàn khác để không ảnh hưởng đến việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

Họ đã đánh mất đi tất cả những gì mà đã từng tạo dựng được ở Việt Nam. Kết cục là, đường lối đối ngoại mới của lãnh đạo Liên Xô đã đóng một vai trò hết sức tiêu cực”.

Chuyên gia Grigory Lokshin, PTS lịch sử đến từ Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và ASEAN nói rõ thêm về quan điểm của lãnh đạo Liên Xô thời đó:

“Năm 1988, như giáo sư Mosyakov nói, Liên Xô hầu như không làm gì. Đó là thời điểm Moskva và Bắc Kinh bắt đầu đàm phán.

Và (trong giới lãnh đạo Liên Xô) không ai có thể hình dung rằng, chỉ vì vài hòn đảo nào đó ở quần đảo Trường Sa lại có thể làm trở ngại đến cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc.

Chúng ta có 7.000 km đường biên với Trung Quốc. Liên Xô cũng có những lợi ích riêng của mình, mỗi đất nước phải ưu tiên đến quyền lợi riêng, an ninh của mình”.

Cũng chuyên gia này, trong một tham luận có tên “Quần đảo Trường Sa hôm qua và hôm nay” công bố năm 2014 trên tạp chí “Những trang lịch sử”, cũng chỉ rõ Trung Quốc lựa chọn kỹ thời điểm tấn công các đảo của Việt Nam.

Đó là vào mùa xuân 1988, khi mà dư luận thế giới đang tập trung vào tình hình Campuchia, trước khi các nước ASEAN lắng dịu lại quan hệ với Việt Nam trong vấn đề Campuchia.

Cựu phóng viên báo “Tin tức” thường trú ở Việt Nam năm 1988, Boris Vinogradov cũng lý giải sự im lặng của Liên Xô trước sự kiện Gạc Ma: “Khi đó, tôi cũng có viết một bài về cuộc đụng độ vũ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam tháng 3/1988 ở Trường Sa.

Bài báo được đăng. Nhưng trên báo chí Xô viết thời đó, chủ đề này thiếu hụt các bài phân tích sâu và gây được chú ý.

Giải thích điều này cũng dễ: khi đó Moskva và Bắc Kinh đang thiết lập mối quan hệ gần gũi hơn. Moskva làm như không nhận thấy những gì đang xảy ra ở Trường Sa và coi đó là công việc nội bộ của Việt Nam và Trung Quốc”.


Thứ Năm, 10 tháng 3, 2016

Đôi nét về Thụy Sĩ

(Xin kích chuột vào pic để xem pic lớn).

Tiếp tục trào lưu ăn chơi sa đọa đú đởn, B-) theo yêu cầu của mệ Hà Ninh, mụ Tường dẫn hai mệ con tham quan Zurich, Thụy Sĩ .. đất nước tư bản đang giãy chết .. :* :v


Chúng nó quá nghèo :’( đi xe đạp hộc máu lun .. B-)


Thủ phạm gây nên tình trạng giá dầu tụt dốc thê thảm hẳn là con Thụy Sĩ B-) ..


Là quốc gia trung lập, Zurich không bị ảnh hưởng chiến tranh thế giới II nên kéo theo lượng người từ các quốc gia khác đến đây sinh sống. Sự đa dạng về văn hóa có thể nhìn thấy : mỗi công dân Thụy Sỹ nói một cách trôi chảy ít nhất 5 ngôn ngữ : Đức, Pháp, Ý, Anh và tiếng La Tinh cổ, trong đó các ngôn ngữ Đức, Pháp và Ý là ngôn ngữ chính của quốc gia.

Bọn này sắp bị loài người tiến bộ Việt Nam, Triều Tiên qua mặt rồi .. :v


Người ta gọi Zurich là “thành phố buồn ngủ” bởi dân số trong vùng nội ô Zurich chỉ khoảng 380.000 người và quá yên bình. Ít ai biết rằng Zurich là một thành phố rất đa dạng về văn hóa và dòng chảy tiền tệ của các ngân hàng cứ âm thầm hoạt động.


Các ngân hàng của Thụy Sỹ quá nổi tiếng trên thế giới về độ an toàn, kín tiếng và hầu hết đặt tổng hành dinh tại Zurich. Zurich còn có cái tên khác “thành phố của các ngân hàng” bởi nó là thành phố kinh tế lớn nhất Thụy Sỹ.


Nhà thờ chính của thành phố là nhà thờ Thánh Peter. Trong năm 1538 một đồng hồ đã được gắn vào tháp chuông trong nhà thờ. Với đường kính mặt đồng hồ là 8,7 mét và kim phút 3,95 mét, đó là mặt đồng hồ lớn nhất ở châu Âu. Lưu ý rằng đường kính của đồng hồ Big Ben nổi tiếng là chỉ 7 mét.


Lâu đời nhất Zürich là Giáo Hội Fraumünster - một cựu tu viện cho phụ nữ quý tộc. Các tu viện được đặt dưới sự bảo trợ của vua và được trợ cấp kinh phí hoạt động và kéo dài cho đến thế kỷ thứ 13.


Cả lũ Tây lông đổ ra hồ Zurich hít thở không khí :v trên những đồi cao bên mặt hồ là những biệt thự tuyệt đẹp của những bọn tư bản bóc lột giàu có. 

Theo các tạp chí kinh tế lớn, nếu xếp hạng theo tiêu chí chất lượng cuộc sống, Zurich luôn nằm trong top 3. Nếu xếp mức độ đáng sống, Zurich nằm trong top 15.

Còn lâu lắm Zurich mới đạt tầm cỡ Việt Nam .. B-)


Ngôi nhà số 14 đường Spiegelgasse, nơi Lenin đã từng sống tại đây vào năm 1916 trước khi trở về Nga để lãnh đạo cuộc cách mạng. Ngôi nhà số 54 ở đường Seefeldstrasse, cũng là nơi của nhà văn Do Thái nổi tiếng James Joyce đã sống tại đây vào năm 1916 để viết cuốn tiểu thuyết Ulysses.

Lê Nin mà ở lại Thụy Sĩ lun là bây zờ Thụy Sĩ ngon như Liên Xô dzồi ý nhỉ .. B-) (Y)


Sau thế chiến thứ II, năm 1946, thủ tướng Anh Winston Churchill đã đến và phát biểu khen ngợi thành phố Zurich – Thụy Sỹ : “Một Châu Âu hồi sinh”. và được khắc trên các cột đá tại nhà thờ Grossmünster .
..


Diện tích bề mặt của hồ là 88 km vuông ở độ cao 409 mét do dòng sông Limmat chảy ngang qua thành phố từ phía bắc hồ Zurich, do tuyết tan từ trên núi đổ vào dòng sông .


Nguồn, fb Bách Tường.